Đánh giá giữa kỳ kế hoạch vay, trả nợ công giai đoạn 2021-2025
Ngày 17/8, tại Hà Nội, Bộ Tài chính phối hợp với Ngân hàng Thế giới tổ chức Hội thảo “Đánh giá giữa kỳ kế hoạch vay, trả nợ công 05 năm giai đoạn 2021-2025”. Ông Trương Hùng Long, Cục trưởng Cục Quản lý nợ và tài chính đối ngoại chủ trì Hội thảo. Tham dự Hội thảo còn có đại diện một số đơn vị chuyên môn thuộc Bộ Tài chính; đại diện các cơ quan thuộc Quốc hội, Bộ, ngành, địa phương; đại diện các đối tác quốc tế (Ngân hàng Thế giới, Quỹ Tiền tệ quốc tế, Ngân hàng Phát triển Châu Á, Cục Kinh tế liên bang Thụy Sỹ (SECO), Cơ quan Hợp tác quốc tế Nhật Bản, Ngân hàng Xuất nhập khẩu Hàn Quốc, Kho bạc thuộc Bộ Tài chính Philippines).
Việt Nam đã có những cải cách quan trọng về quản lý nợ công
Phát biểu khai mạc Hội thảo, thay mặt Bộ Tài chính, ông Trương Hùng Long, Cục trưởng Cục Quản lý nợ và tài chính đối ngoại (Cục QLN) bày tỏ cảm ơn các cơ quan đối tác đến tham dự, chia sẻ kinh nghiệm tại Hội thảo. Ông Trương Hùng Long kỳ vọng Hội thảo này sẽ là diễn đàn để các đại biểu thảo luận, làm sâu sắc hơn các đánh giá, phân tích về việc huy động, sử dụng vốn vay nợ công giai đoạn 2021-2023. Đây cũng là cơ hội để Bộ Tài chính lắng nghe chia sẻ kinh nghiệm về quản lý nợ công và các khuyến nghị cho Việt Nam từ phía các chuyên gia quốc tế để hoàn thiện báo cáo đánh giá, báo cáo tại kỳ họp thứ 6 Quốc hội thứ XV sắp tới.
Kế hoạch vay, trả nợ công 5 năm giai đoạn 2021-2025 được triển khai thực hiện trong bối cảnh thế giới và khu vực có nhiều biến động phức tạp, khó lường do ảnh hưởng của dịch Covid-19; xung đột Nga – Ucraina; chính sách “không Covid” của Trung Quốc kéo dài, gây đứt gãy chuỗi cung ứng; lạm phát; chính sách thắt chặt tiền tệ của một số nước trên thế giới; tăng trưởng kinh tế thế giới chậm lại, thị trường tài chính, ngân hàng tại một số quốc gia khó khăn, tiềm ẩn nhiều rủi ro. Trong bối cảnh đó, Việt Nam đã duy trì được ổn định chính trị - xã hội, nền tảng kinh tế vĩ mô được giữ vững, lạm phát được kiểm soát, các cân đối lớn của nền kinh tế được đảm bảo.
Theo đánh giá của Cục QLN, nhìn lại giai đoạn 2021-2023, công tác quản lý nợ công đã đạt được một số kết quả nổi bật: An toàn nợ công được đảm bảo trong phạm vi mức trần, ngưỡng cảnh báo được Quốc hội phê duyệt, uớc đến cuối năm 2023, nợ công/GDP khoảng 40-41%, nợ Chính phủ/GDP khoảng 37-38%, nợ Chính phủ bảo lãnh/GDP khoảng 3-4%, nợ chính quyền địa phương/GDP dưới 1%; Đảm bảo huy động vốn vay cho NSNN và đầu tư phát triển; Thực hiện thanh toán trả nợ đầy đủ, đúng hạn, góp phần cải thiện hệ số tín nhiệm quốc gia.
Đặc biệt, năm 2022, trong bối cảnh nhiều quốc gia bị hạ bậc tín nhiệm, Việt Nam được 2 tổ chức xếp hạng tín nhiệm Moody’s và S&P nâng hạng tín nhiệm quốc gia, tổ chức Fitch giữ nguyên mức xếp hạng tín nhiệm. Đây là những tín hiệu tích cực, khẳng định sự đánh giá cao của các tổ chức quốc tế về khả năng chống chịu của nền kinh tế Việt Nam và khả năng tăng trưởng kinh tế trong trung và dài hạn, hành động, chính sách kịp thời, hiệu quả của Chính phủ.
Còn nhiều thách thức
Phát biểu tại Hội thảo, các chuyên gia từ WB đều chung quan điểm cho rằng, công tác quản lý nợ công tại Việt Nam trong thời gian tới sẽ phải đối mặt với nhiều thách thức, đòi hỏi cần có một chiến lược quản lý nợ công toàn diện. WB cùng với Cục Kinh tế liên bang Thụy Sỹ (SECO) sẵn sàng hỗ trợ Việt Nam tăng cường công tác quản lý và các hoạt động hỗ trợ thông qua chương trình quản lý nợ rủi ro của Chính phủ, hỗ trợ Việt Nam quản lý kinh tế vĩ mô và tài khóa, chống lại các cú sốc bên ngoài.
Ông Andrea Coppola, Chuyên gia kinh tế trưởng Ngân hàng Thế giới tại Việt Nam ghi nhận tiến độ đạt được trong công tác quản lý nợ công của Việt Nam trong thời gian qua và cho rằng, Việt Nam đã có những cải cách quan trọng về quản lý nợ công, trong đó bao gồm tăng cường khung pháp lý, quản lý thể chế liên quan quản lý nợ công.
Đại diện WB nhìn nhận, thời gian tới, Việt Nam vẫn còn phải đối mặt với nhiều thách thức do độ mở nền kinh tế cao nên dễ chịu tác động từ cú sốc bên ngoài; ảnh hưởng của biến đổi khí hậu, thiên tai, dịch bệnh, ô nhiễm môi trường gây sức ép lên tài chính ngân sách. Mặt khác, Việt Nam đã trở thành nước thu nhập trung bình, trong thời gian tới, khoản vay ODA sẽ tiến tới kết thúc, tỷ trọng vay ưu đãi và vay theo điều kiện thị trường tăng, dẫn đến chi phí vay vốn tăng lên, đặc biệt trong bối cảnh lãi suất thế giới vẫn duy trì ở mức cao...
Một thách thức khác là công tác tổ chức quản lý nợ tại Việt Nam còn nhiều phân tán, trong khi một số quốc gia trong khu vực như Thái Lan, Indonesia đã thiết lập ra cơ quan quản lý nợ trong đó ra quyết định nợ dựa trên phân tích danh mục nợ, chi phí và rủi ro. Do đó, cải cách thể chế sẽ tạo điều kiện cho công tác huy động nợ, trên cơ sở đó hỗ trợ phát triển thị trường trong nước hiệu quả, góp phần quản lý ngân sách hiệu quả. “Việt Nam đề ra Chiến lược 10 năm đạt mục tiêu thành lập cơ quan quản lý nợ vào năm 2030, khung thời gian đó phản ánh thực tế cải cách thể chế rất quan trọng và cần có sửa đổi quy định pháp luật đồng thời cải cách quản lý nợ cũng là 1 phần của công cuộc quản lý tài chính công nói chung...” ”- ông Andrea Coppola khuyến nghị.
Đánh giá về thực trạng quản lý nợ công của Việt Nam hiện nay, ông Lars Jessen, chuyên gia từ Ngân hàng Thế giới cho rằng, Việt Nam đang có cấu nợ an toàn với tỷ trọng nợ dài hạn trong nước cao; mức độ bền vững nợ công dưới mức giới hạn khá nhiều; các kế hoạch và chiến lược nợ công hiện nay chủ yếu tập trung vào các chỉ tiêu an toàn nợ công. Tuy nhiên, trong thời gian tới, áp lực quản lý nợ công sẽ tăng lên, nên hình thành một cơ quan quản lý nợ công. Đây là cải cách quan trọng tạo điều kiện để cải cách thể chế và xử lý rủi ro trong thời gian tới. Hiện nay Việt Nam đã có những lợi thế quan trọng để thành lập cơ quan quản lý nợ công thống nhất…
Chia sẻ kinh nghiệm quản lý nợ công tại Philippines, ông Erwin D. Sta Ana, Phó Giám đốc kho bạc quốc gia Philippines cho hay, việc lựa chọn công cụ huy động vốn phù hợp có ý nghĩa quan trọng đảm bảo đáp ứng nhu cầu tài trợ. Philippines đã huy động được tổng cộng 5,1 nghìn tỷ peso kể từ khi triển khai chương trình bán lẻ trái phiếu trong nước. Các sản phẩm định hướng bán lẻ hiện chiếm hơn 1/3 danh mục đầu tư trái phiếu Chính phủ trung ương và sự phát triển của các nền tảng nhận lệnh trực tuyến đã giúp việc đầu tư chứng khoán của Philippines trở nên dễ dàng hơn. Vào năm 2017, Philippines đã ban hành Lộ trình phát triển thị trường nợ nội tệ. Lộ trình này bao gồm nhiều biện pháp cải cách quan trọng nhằm tăng nhanh tính thanh khoản của thị trường trái phiếu Chính phủ và tăng cường khả năng khám phá các mức giá….Đại diện Philippines cho rằng, việc duy trì danh mục nợ có kỳ hạn từ trung đến dài hạn; thiên về nguốn vốn trong nước; đa dạng hóa phát hành trái phiếu ra nước ngoài là các nguyên tắc cần bám sát để đảm bảo thành công.
Về phía Việt Nam, đại diện Cục QLN cho biết, trong thời gian tới, bên cạnh việc tiếp tục triển khai các giải pháp đề ra tại Nghị quyết số 23/2021/QH15 của Quốc hội, hoàn thiện thể chế, chính sách về quản lý NSNN, đầu tư công, đồng bộ với hoàn thiện khuôn khổ pháp lý quản lý nợ công; triển khai hiệu quả việc huy động vốn vay cho NSNN; bố trí nguồn vốn để thanh toán trả nợ đầy đủ, đúng hạn; tiếp tục thực hiện giám sát, thanh tra, kiểm tra, kiểm toán, kịp thời tháo gỡ khó khăn, vướng mắc trong việc sử dụng vốn vay; đảm bảo chấp hành các quy định về vay, trả nợ công, Bộ Tài chính đề xuất một số giải pháp tăng cường quản lý nhằm triển khai hiệu quả kế hoạch vay, trả nợ công giai đoạn 2024-2025, như: tiếp tục hoàn thiện thể chế, chính sách về quản lý NSNN, đầu tư công, đồng bộ với hoàn thiện khuôn khổ quản lý nợ công; đẩy nhanh tiến độ giải ngân vốn đầu tư công để nâng cao hiệu quả công tác huy động vốn; tiếp tục nghiên cứu để phát triển đa dạng sản phẩm, hàng hóa trên thị trường trái phiếu Chính phủ, phù hợp với nhu cầu của nhà đầu tư, gồm cả sản phẩm trái phiếu Chính phủ xanh;…
Theo HP (Cổng TTĐT BTC)